Cố giáo sư – nhạc sĩ Trần Văn Khê là nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng nhất của Việt Nam thời cận đại. Ông là người Việt Nam đầu tiên đậu tiến sĩ ngành âm nhạc học tại Pháp, là giáo sư tại Đại học Sorbonne (Pháp), đồng thời là thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc Quốc tế – UNESCO.
Giáo sư Trần Văn Khê còn là người có bề dày trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, có công lớn trong việc quảng bá âm nhạc Việt Nam nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung ra thế giới.
Đặc biệt, giáo sư Trần Văn Khê còn là một trong những nghệ sĩ Việt Nam đầu tiên có những bản thu âm tại Pháp với nghệ danh là Hải Minh (được ghép từ tên của 2 người con đầu của ông).
Giáo sư Trần Văn Khê sinh ngày 24 tháng 7 năm 1921 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, quận châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là huyện châu Thành, tỉnh Tiền Giang) trong gia đình có bốn đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cổ truyền Việt Nam.
Sau khi cúng thôi nôi, Trần Văn Khê đã được ông nội rước về ở gần và hàng ngày nghe ông đờn tỳ bà, cha đờn độc huyền, cô thì đờn tranh, sống trong một không khí đầy âm nhạc. Khách tới, ông nội đờn bài Lưu Thủy để cho chú bé Trần Văn Khê nhảy trong tay người cô hoặc người khách, khi đó đã biết nhảy theo nhịp, hễ ông đờn mau, thì nhảy mau, ông đờn chậm thì nhảy chậm.
Năm lên 6 tuổi ông đã được cô (Ba Viện) và cậu (Năm Khương) dạy đàn kìm, đàn cò, đàn tranh, biết đàn những bản dễ như Lưu Thuỷ, Bình Bán Vắn, Kim Tiền, Long Hổ Hội.
Ông nội của Trần Văn Khê là Trần Quang Diệm (Năm Diệm), cha ông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều), cô là Trần Ngọc Viện (tức Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban), đều là những nghệ nhân âm nhạc cổ truyền nổi tiếng vào cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 20.
Cụ cố ngoại của ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương nổi tiếng của triều Nguyễn, làm đến chức Khâm sai Kinh Lược Nam Kỳ. Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng say mê âm nhạc, có ba người con đều theo nghiệp đờn ca, một trong số đó Nguyễn Tri Khương, thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng. Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Dành (Tám Dành), tham gia cách mạng từ năm 1930, nhưng bị thương rồi mất trong năm đó. Cha của ông vì thương nhớ vợ nên qua đời năm 1931.
Mồ côi mẹ từ năm 9 tuổi, cha mất năm 10 tuổi, nên giáo sư Trần Văn Khê cùng với hai em là “quái kiệt” Trần Văn Trạch và Trần Ngọc Sương được người cô tên là Ba Viện nuôi nấng. Cô Ba Viện rất thương, cho anh em ông đi học võ, học đàn kìm.
Năm 1931, khi 10 tuổi, Trần Văn Khê đậu tiểu học ở Tam Bình, Vĩnh Long, nhờ người cô thứ năm nuôi. Cũng tại đây, Trần Văn Khê được học chữ Hán với nhà thơ Thượng Tân Thị. Trong kỳ sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long được đậu sơ học có phần Hán Văn. Cả tỉnh chỉ có 2 người là Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán.
Năm 1934, ông vào trường Trung học Petrus Ký ở Sài Gòn và được cấp học bổng.
Năm 1938, vì học rất giỏi nên ông được phần thưởng là một chuyến du lịch từ Sài Gòn đến Hà Nội, ghé qua Phan Thiết, Đà Nẵng, Nha Trang, Huế.
Năm 1940, nhờ đậu tú tài phần nhất, rồi thủ khoa phần nhì năm 1941, ông được toàn quyền Đông Dương lúc đó là Jean Decoux thưởng cho đi viếng cả nước campuchia xem chùa Vàng, chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích, trên đường về Việt Nam thì được ghé Hà Tiên.
Sau khi về, nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, Trần Văn Khê được nhà thơ Đông Hồ tiếp đãi trong một tuần, dẫn đi xem thập cảnh mỗi nơi được nghe một bài thơ hay do thi sĩ Đông Hồ đọc để vịnh cảnh đẹp.
Thời gian này tại trường Petrus Ký, ông cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola club của hội SAMIPIc (Đức Trí Thể Dục Nam Kỳ). Trần Văn Khê chỉ huy hai dàn nhạc đó, vừa phối khí dàn nhạc dân tộc có chen đàn Tây như mandoline, ghi-ta (guitar), vừa diễn trong khuôn khổ dàn nhạc Scola club những bài hát Tây, và làm trưởng ban tổ chức lễ Ông Táo trước ngày lễ nghỉ vào dịp Tết Ta, Tổng thư ký hội Thể Thao, và giữ tủ sách của trường trong ba năm Tú Tài.
Năm 1942, Trần Văn Khê ra Hà Nội học Y khoa. Tại đây, cùng với Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng hội Sinh viên. Do thể hiện một trình độ cảm nhạc xuất sắc, ông được cử làm nhạc trưởng của giàn nhạc trường, nhân giới thiệu những bài hát của Lưu Hữu Phước. Ông còn tham gia phong trào “Truyền bá quốc ngữ” trong ban của GS Hoàng Xuân Hãn, “Truyền bá vệ sinh” của các sinh viên trường Thuốc, và cùng các bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến “đi Hội đền Hùng”, và đi viếng sông Bạch Đằng, Ải chi Lăng, đền Hai Bà.
Năm 1943, ông cưới bà Nguyễn Thị Sương, là người bạn gái học cùng lớp. Sau đó cùng với nhiều sự kiện khác nữa làm Trần Văn Khê phải xin thôi học để trở về miền Nam.
Năm 1944, vợ chồng nhạc sĩ Trần Văn Khê có người con trai đầu lòng là Trần Quang Hải, sau này cũng là giáo sư – nhạc sĩ, là một nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam danh tiếng.
Sau cách Mạng Tháng Tám năm 1945, ông tham gia kháng ᴄhιến.
Đầu năm 1946, giáo sư Trần Văn Khê có thêm người con trai thứ hai đặt tên là Trần Quang Minh, sau đó ông được tổ chức bố trí lùi về vùng Pháp kiểm soát cuối năm 1946. Lúc này ông vừa viết cho báo Thần chung, Việt Báo, tạp chí Sông Hương, tạp chí Mai, vừa dạy Anh Văn tại hai trường Huỳnh cẩm chương, Ngô Quang Vinh, và mở lớp dạy tư Anh văn tại nhà. Được phân công phê bình âm nhạc và sân khấu, Trần Văn Khê thường gặp gỡ các đào kép cải lương như Tư chơi, Năm châu, Bảy Nhiêu, Duy Lân… để bàn về sự phát triển của cải lương.
Năm 1946 cũng là năm ông sáng tác bản nhạc Đi chơi chùa Hương phổ nguyên văn toàn bộ bài thơ của Nguyễn Nhược Pháp.
Năm 1948, vợ chồng ông có thêm cô con gái tên là Trần Thị Thuỷ Tiên. cũng trong năm này, các tổ kháng ᴄhιến tại thành bị lộ, Trần Văn Khê bị bắt và giam tại khám catinat một thời gian.
Năm 1949, giáo sư Trần Văn Khê quyết định du học nên chưa biết mặt cô con gái út tên là Trần Thị Thuỷ Ngọc còn nằm trong bụng mẹ. Lúc này bà Sương đã trở thành cô giáo dạy Pháp văn và Anh văn để nuôi và dạy dỗ 4 con cho tới ngày trưởng thành.
Do hoàn cảnh, cũng từ năm 1949, vợ chồng ông không sống với nhau nữa, sau đó quyết định ly dị, tuy nhiên sau này vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp.
Hè năm 1951, ông thi đậu vào trường chính trị Khoa giao dịch quốc tế.
Thời gian này, để có tiền ăn học trên xứ người, ông lấy nghệ danh là Hải Minh để thu thanh 1 số bài hát cho hãng dĩa Oria của Pháp và đi hát ở quán bar của người Việt tên là Bồng Lai. Hải Minh là ghép từ 2 tên hai người con của ông là Trần Quang Hải và Trần Quang Minh.
Những năm đầu tại Pháp, sức khỏe của ông không được tốt và bị phát hiện mắc bệnh lao thận, phải nằm ở Nhà dưỡng lao dành cho sinh viên từ năm 1951-1953. Nằm ở đây, sinh viên được tạo điều kiện vừa dưỡng bệnh vừa có thể tiếp tục việc học ở đại học mà không bị gián đoạn.
Khi mới sang Pháp, ban đầu Trần Văn Khê định tiếp tục ngành Y, ngành học ông đang theo đuổi trong nước. Tuy vậy, do điều kiện không thuận lợi để xin học bổng, ông đăng ký học trường chính trị Paris. Thời gian nằm dưỡng lao, để không uổng phí thời gian, quyết định ghi tên làm luận án tiến sĩ tại Đại học Sorbonne với đề “Âm nhạc dân tộc Việt Nam”. Đó là một quyết định mang tính lịch sử.
Sau này Trần Văn Khê nói rằng trong khi các bạn ông đang quay cuồng vì cơm áo gạo tiền ngoài cuộc sống, “nhờ bệnh”, nằm trong môi trường cách ly với bên ngoài, ông có thời gian dùi mài kinh sử, đào sâu vào thế giới nhạc dân tộc, quay trở lại với nguồn cội âm nhạc mà bốn đời gia tộc ông đam mê.
Năm 1958, Trần Văn Khê theo học khoa nhạc học và chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự chỉ đạo của các giáo sư Jacques chailley, Emile gaspardone và André Schaeffner. Tháng 6 năm 1958, ông đậu Tiến sĩ Văn khoa (môn Nhạc học) của Đại học Sorbonne. Luận văn của ông có tên: “LaMusique vietnamienne traditionnelle” (Âm nhạc truyền thống Việt Nam).
Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris (Institut de Musicologie de Paris). Ông là thành viên của Viện Khoa học pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức (International Institute for comparative Music Studies).
Ông đã đi 67 nước trên khắp thế giới để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam.
Sau năm 1975, giáo sư Trần Văn Khê trở về lại Việt Nam với tư cách Giám đốc nghiên cứu trong Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, thành viên Hội đồng Quốc tế Âm nhạc thuộc UNEScO, một chuyên gia hàng đầu về âm nhạc truyền thống của Việt Nam.
Ông không ngần ngại thừa nhận công khai rằng công trình khoa học về âm nhạc truyền thống Việt Nam làm nên tấm bằng tiến sĩ của ông thực ra còn nhiều thiếu sót, hạn chế do được thực hiện trong hoàn cảnh xa đất nước. Bởi vậy, từ năm 1976 đến năm 1990, năm nào ông cũng về Việt Nam, lặn lội khắp các miền đất nước, ghi âm, chụp hình được trên 500 bài dân ca, dân nhạc các loại nhằm tìm hiểu cặn kẽ một nền âm nhạc đa dạng và sâu rộng, cố gắng ghi lại cũng như phục hồi những gì sắp bị chìm vào quên lãng; kêu gọi gìn giữ cái hay, cái đẹp cho thế hệ sau.
Đồng thời, mỗi năm ông dành ra 2 – 3 tháng để thuyết trình tại các trường đại học trong cả nước. Tới mỗi trường đại học của Việt Nam, ngoài việc truyền bá những kiến thức âm nhạc; đem nhiệt huyết, tình yêu âm nhạc dân tộc thổi vào những lớp thanh niên thời đại mới ở Việt Nam.
Qua những buổi nói chuyện của GS.TS Trần Văn Khê, nghe ông nói về cội nguồn âm nhạc dân tộc, người ta thấy được cái tình của một người nhạc sĩ suốt đời say mê nghiên cứu, sưu tầm, phổ biến âm nhạc truyền thống Việt Nam. Ông rất bác học, tinh tế qua những cuộc diễn thuyết, minh họa về chèo, tuồng, hát bội, cải lương, hát bài chòi, hò Huế, hò lục tỉnh… Ông không chỉ nổi tiếng là người phổ biến âm nhạc dân gian Việt Nam với thế giới mà còn là người cực kỳ am hiểu âm nhạc dân tộc của nhiều nước, vì với ông: “Hạnh phúc nhất là được làm những điều mình tha thiết mong muốn: đem tiếng nhạc, lời ca dân tộc đến mọi nơi để siết chặt tinh thân hữu giữa dân tộc Việt Nam với bạn bè bốn biển, năm châu, đem được vui tươi nhẹ nhàng cho người nghe, lại có dịp góp sức với đồng nghiệp các nước Á, Phi bảo vệ nền âm nhạc cổ truyền, chống lại tệ nạn vọng ngoài, sùng bái nhạc phương Tây”.
Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở pháp, năm 2006, ông chính thức trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam. Ông cũng là người đã hiến tặng cho Thành phố Hồ chí Minh 420 kiện hiện vật quý, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.
Năm 2009, ông là một trong những trí thức nổi tiếng ký vào thư phản đối dự án Boxit ở Tây Nguyên.
Sau một thời gian bị bệnh, ông qua đời vào khoảng hai giờ sáng ngày 24 tháng 6 năm 2015 tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, Sài Gòn.
nhacvangbolero.com biên soạn