Trước khi bàn về hệ thống giáo dục miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1955-1975, được xây dựng trên ba nguyên tắc căn bản: nhân bản, dân tộc, khai phóng, cần điểm qua nền giáo dục thời kỳ Quốc Gia Việt Nam từ năm 1948 đến 1955.

Bằng Tiểu Học do Nha Học Chính Nam Việt cấp 1952

Quốc Gia Việt Nam (1948-1955)

Năm 1948, một thỏa thuận giữa cựu hoàng Bảo Đại và tổng thống nước Pháp đã thành lập Quốc Gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp, với Bảo Đại làm quốc trưởng và Nguyễn Phan Long là thủ tướng đầu tiên, sau đó là Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Tâm. Mặc dù Quốc Gia Việt Nam tuyên bố chủ quyền toàn bộ đất nước, quyền cai trị thực tế vẫn thuộc về Pháp, với Cao ủy Pháp kiểm soát tài chính, thương mại, quân sự và chính sách đối ngoại.

Trong lĩnh vực giáo dục, chương trình học và cơ sở nhà trường vẫn thừa hưởng từ hệ thống do Pháp thiết lập. Hình ảnh bằng cấp Sơ Đẳng Tiểu Học (Certificat d’Etudes Primaires Franco-Indigenes) dưới thời thủ tướng Nam Việt – Trần Văn Hữu năm 1951 cho thấy hệ thống giáo dục này vẫn đang vận hành.

Nền Giáo dục Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963)

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam thuộc quản lý của Quốc Gia Việt Nam. Thủ tướng Ngô Đình Diệm sau đó phế truất quốc trưởng Bảo Đại, lên làm tổng thống và lập ra Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) dựa trên nền tảng chương trình Pháp Việt, gồm ba bậc học:

  1. Tiểu học: 5 năm, từ lớp 1 đến lớp 5 (trước năm 1970 gọi là lớp Năm, Tư, Ba, Nhì và Nhất). Cuối lớp 5 có kỳ thi lấy bằng tiểu học.
  2. Trung học: 7 năm, gồm hai cấp. Trung học Đệ Nhất Cấp có các lớp Đệ Thất, Lục, Ngũ và Tứ; cuối năm Đệ Tứ thi bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp. Trung học Đệ Nhị Cấp gồm ba lớp Đệ Tam, Nhị và Nhất; cuối lớp Đệ Nhị phải thi Tú Tài I và sau đó là Tú Tài II.
  3. Đại học: Người có bằng Tú Tài II có thể học hoặc thi tuyển vào các phân khoa thuộc Viện Đại học, các trường Cao Đẳng và chuyên nghiệp.

Nguyên tắc Giáo dục Miền Nam

Năm 1958, Đại hội Giáo dục Quốc Gia lần thứ nhất tại Sài Gòn đã chính thức hóa ba nguyên tắc: nhân bản, dân tộc, khai phóng. Đây là những nguyên tắc nền tảng cho triết lý giáo dục miền Nam, được ghi cụ thể trong tài liệu “Những nguyên tắc căn bản” do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong “Nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam” ở Chương trình Trung học năm 1959.

Sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa chấm dứt, năm 1964, Đại hội Giáo dục Quốc gia lần thứ hai đã tái khẳng định ba nguyên tắc này, nhưng bổ sung thành: nhân bản, dân tộc, khoa học. Điều này được ghi rõ ở Điều 11, Hiến pháp của nền Đệ Nhị Cộng Hòa năm 1967: “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản”.

Triết lý giáo dục của miền Nam dựa trên ba nguyên tắc:

  1. Nhân bản: Tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy con người làm cứu cánh, nhằm phát triển toàn diện con người.
  2. Dân tộc: Tôn trọng giá trị truyền thống, gắn liền với gia đình, nghề nghiệp, đất nước, đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của quốc gia dân tộc.
  3. Khai phóng: Tôn trọng tinh thần khoa học, phát huy tinh thần dân chủ và xã hội, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.
Hình 20: Học trò lớp Tư 1954 trường Chi Lăng trên đường Chi Lăng, gần trường Vẽ Gia Định
Bằng cấp Tiểu học thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa 1960 cấp cho học sinh tốt nghiệp trường tiểu học

Giáo dục Tiểu học Miền Nam (1955-1975)

Bậc Tiểu học thời kỳ này gồm 5 lớp: lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 và lớp 5. Theo Hiến pháp, giáo dục tiểu học là bắt buộc. Từ năm 1955, luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Cuối mỗi năm học, học sinh phải thi để lên lớp, ai trượt phải học lại lớp.

Các trường công lập hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Theo quy định của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, học sinh tiểu học đi học 2 buổi/ngày, 6 ngày mỗi tuần, được nghỉ 2 buổi chiều. Đối với các trường không có điều kiện, học sinh học 1 buổi/ngày, chia theo 2 ca sáng và chiều. Đầu thập niên 1970, toàn miền Nam có khoảng 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi, và có 5.208 trường tiểu học.

Trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp 1. Phụ huynh có thể chọn cho con học miễn phí trong các trường công lập hoặc tốn học phí tại các trường tư thục. Ở các địa phương hoặc vùng nông thôn, học sinh bắt đầu học lớp 1 chậm hơn, từ 7 hoặc 8 tuổi.

Chương trình học tiểu học: Lớp 1 học 25 giờ mỗi tuần, trong đó 9,5 giờ Quốc văn; 2 giờ Bổn phận Công dân và Đức dục (Công dân giáo dục). Lớp 2, Quốc văn giảm còn 8 giờ, nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên, ba môn Quốc văn, Công dân và Sử – Địa chiếm 12-13 giờ mỗi tuần. Một năm học kéo dài 9 tháng, nghỉ hè ba tháng.

Ngày nghỉ lễ trong năm học có khoảng 10 ngày, bao gồm các ngày: Lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng, Lễ giỗ tổ Hùng Vương, ngày Quốc Tế Lao Động 1-5, Tết âm lịch và các ngày lịch sử địa phương.

Học sinh giỏi có thể học vượt lớp (gọi là học phóng), ví dụ từ lớp 3 lên lớp 5. Tuy nhiên, số học sinh này rất ít.

Trường Tiểu Học Cộng Đồng

Trước năm 1961, trường tiểu học cộng đồng do Tổng nha Trung Tiểu học và Bình dân giáo dục quản lý. Theo định nghĩa của Ủy ban UNESCO tại Việt Nam lúc đó: “Trường cộng đồng khác với trường phổ thông ở hai phương diện: hoạt động bên trong và hoạt động bên ngoài. Trường phổ thông theo đuổi chương trình khoa cử thụ động, còn trường tiểu học cộng đồng thực hiện chương trình linh động, có tính cách địa phương qua các chủ điểm giáo dục, vừa cá tính hoá, vừa xã hội hoá nền học cùng một lúc”.

Thời kỳ từ năm 1955 đến 1958 là thời kỳ đầu của trường tiểu học cộng đồng ở miền Nam. Một số trường được xây dựng, chủ yếu ở nông thôn, trang bị nhiều thiết bị thực hành như máy khâu, máy may, máy dệt vải,… do Quỹ Viện Trợ Hoa Kỳ đài thọ. Mục đích là hướng nghiệp cho học sinh về các ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp (may mặc, giày dép,…).

Chương trình học chủ yếu giống chương trình tiểu học phổ thông, nhưng thêm các bộ môn gắn liền với thực tế ở địa phương. Từ năm 1958 đến năm 1962, Bộ Quốc Gia Giáo Dục tiếp tục cải tiến trường tiểu học phổ thông thành trường tiểu học cộng đồng, đồng thời đào tạo giáo viên cộng đồng tại Trung tâm giáo dục Căn bản ở Long An.

Trong giai đoạn 1962-1965, hệ thống trường cộng đồng tiếp tục phát triển. Nha tiểu học đổi thành Nha Tiểu học và Giáo dục cộng đồng theo Nghị định số 1692-GD/PC/NĐ ngày 6-12-1965. Đến năm 1967, Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã cộng đồng hoá được 900 trường tiểu học và đến năm 1969, triển khai cộng đồng hoá các trường tiểu học trên toàn miền Nam.

Đội ngũ giáo viên do ngành sư phạm đào tạo. Đến năm 1970, đã có 14.000 trong số 39.192 giáo viên tiểu học được huấn luyện về giáo dục cộng đồng. Đến năm học 1968-1969, trên toàn miền Nam đã có 1.336 trường Tiểu học cộng đồng, với 17.604 lớp, 954.407 học sinh và 17.272 giáo chức.

Bước Chuyển Mình Trong Giáo Dục Tiểu Học

Quá trình hình thành và phát triển hệ thống giáo dục tiểu học miền Nam đã phản ánh sự linh hoạt và nhạy bén trong việc ứng phó với thực tế xã hội và kinh tế. Các chương trình học và chính sách giáo dục không chỉ nhắm vào việc truyền đạt kiến thức cơ bản mà còn chuẩn bị cho học sinh những kỹ năng thực tiễn, phù hợp với đời sống lao động và sản xuất.

Hệ thống giáo dục cộng đồng là một ví dụ tiêu biểu của việc điều chỉnh giáo dục theo hướng phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển địa phương. Với sự hỗ trợ của quốc tế, đặc biệt là từ Quỹ Viện Trợ Hoa Kỳ, các trường học không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn giúp học sinh tiếp cận với các kỹ thuật và kỹ năng cần thiết trong nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Mục tiêu giáo dục

Giáo dục cộng đồng gồm 2 mục tiêu chính và cụ thể như sau:

  • Giáo dục trẻ em: Dạy cho trẻ hiểu biết chữ nghĩa, mở rộng kiến thức, đào tạo những trẻ em chậm tiến trở thành người nhanh nhẹn, vững vàng và tự tin trong học tập.
  • Giáo dục dân chúng: Giúp dân chúng hiểu biết những khái niệm về y tế, kinh tế, văn hoá,… để họ có những tiến bộ trong cuộc sống của bản thân và gia đình, thoát khỏi tình trạng thiếu hiểu biết, nguyên nhân làm cho xã hội nông thôn bị lạc hậu, trì trệ.

Nguyên tắc giáo dục

Có 4 nguyên tắc căn bản trong giáo dục cộng đồng:

  1. Hoạt động sát với hoàn cảnh của địa phương.
  2. Hoạt động sát với nhu cầu địa phương.
  3. Vừa giáo dục trẻ con vừa giáo dục quần chúng.
  4. Chủ trương gắn liền học với hành.

Phương pháp giáo dục

Mục đích của giáo dục cộng đồng là cải thiện đời sống trẻ em trong các gia đình và đời sống của cộng đồng. Dựa vào 4 nguyên tắc trên, trường cộng đồng áp dụng một đường lối giáo dục mới mẻ, thực tế, phù hợp với nông thôn Việt Nam.

Có 4 phương pháp chủ yếu là:

  • Phương pháp nghiên cứu địa phương: Nghiên cứu điều kiện kinh tế, văn hoá, địa lý, tập tục,… của địa phương đó để đề ra chương trình giáo dục thích hợp.
  • Phương pháp chủ điểm: Tập trung vào vấn đề quan trọng nhất của địa phương để có kế hoạch giáo dục phù hợp.
  • Phương pháp nghiên cứu riêng từng vấn đề: Mỗi vấn đề được nghiên cứu cẩn thận, nhưng vừa sức với học sinh.
  • Phương pháp giáo dục quần chúng: Để học sinh hoạt động cùng nhân dân, giúp đỡ và học hỏi nhân dân.

Giáo dục cộng đồng và thực trạng thực hiện

Giáo dục cộng đồng là đường lối giáo dục mang giá trị thực tiễn rất cao, giúp cho xã hội nhanh chóng thoát khỏi tình trạng trì trệ, tạo nền tảng để phát triển theo kịp các nước tiên tiến. Tuy nhiên, chương trình giáo dục cộng đồng tuy mang nhiều cao vọng nhưng trên thực tế thực hiện lại còn nhiều lúng túng và thiếu sót. Điều kiện cơ sở vật chất như trường lớp, thiết bị thiếu thốn; giáo viên không đủ, mục tiêu giáo dục khó trở thành hiện thực.

Đặc điểm của giáo dục tiểu học miền Nam giai đoạn 1955-1975

Dựa vào 3 nguyên tắc căn bản của nền giáo dục là nhân bản, dân tộc và khai phóng, giáo dục tiểu học đã xác định những đặc điểm sau đây:

  1. Tôn trọng nhân cách trẻ em:
    • Giúp trẻ phát triển điều hoà và trọn vẹn tuỳ theo bản chất và căn cứ trên định luật nảy nở tự nhiên về thể xác cũng như về tâm lý.
    • Tôn trọng cá tính và khả năng, sở thích đặc biệt của trẻ.
    • Triệt để áp dụng kỷ luật tự giác.
    • Tránh mọi hình phạt phạm đến nhân cách, nhân phẩm của trẻ.
  2. Phát triển tinh thần quốc gia dân tộc:
    • Lấy đời sống nhân dân và thực trạng xã hội Việt Nam làm đối tượng.
    • Lấy Quốc sử để rèn luyện tinh thần ái quốc, nêu cao ý chí tranh đấu của dân tộc, gây tình thân ái và đoàn kết.
    • Dùng Quốc văn là lợi khí sắc bén để trau dồi tư tưởng quốc gia.
    • Nêu cao vẻ đẹp của non sông Việt Nam, những tài nguyên phong phú của đất nước, những đức tính cố hữu của dân tộc.
    • Duy trì đạo lý cổ truyền và những thuần phong mỹ tục của dân tộc.
    • Gây đức tính tự tín, tự lập, tự cường.
  3. Rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học:
    • Triệt để áp dụng “hàng đội tự trị”, tức là quản lý theo tổ đội, phát triển tinh thần tập thể (chơi tập thể, làm việc tập thể) và gây ý thức cộng đồng.
    • Rèn luyện óc phê phán, tinh thần trách nhiệm, tinh thần kỷ luật.
    • Kích thích tính hiếu kỳ của trẻ, phát triển tinh thần khoa học.
    • Bài trừ dị đoan, mê tín.
    • Tiếp thu tinh hoa văn hoá nước ngoài song song với việc phát huy tinh thần dân tộc.

Kết cấu chương trình và thời khoá biểu bậc tiểu học

Kết cấu chương trình

Chương trình Tiểu học gồm các môn học: Việt ngữ (Ngữ vựng, Tập đọc, Học thuộc lòng, Chính tả, Văn phạm, Tập viết, Tập làm văn), Đức dục, Công dân Giáo dục, Quốc sử, Địa lý, Khoa học thường thức (Khoa học thường thức và Quan sát vệ sinh), Toán, Vẽ, Thủ công, Hoạt động Thanh niên (đi chơi, đi cắm trại), Thể dục, Nữ công gia chánh. Tuỳ vào yêu cầu từng lớp học mà chương trình có những bài học phù hợp. Lớp Nhì và Lớp Nhất được phân chia nam, nữ sinh học riêng. Nữ sinh có thêm môn học Nữ công gia chánh.

Điểm nổi bật của chương trình Tiểu học giai đoạn này là được biên soạn theo hướng tích hợp, liên môn. Giáo viên phải biết liên hệ giữa các môn học và liên hệ thực tế để học sinh hiểu được vấn đề. Ví dụ như trong chương trình Việt ngữ, giáo chức cần nhớ rằng chương trình ấy không tách hẳn chương trình của các môn học khác như Đức dục, Công dân giáo dục, Quốc sử, Địa lý,… mà phải cố tìm cách cho chương trình các môn học ấy và khoa Việt ngữ có liên lạc với nhau.

Thời khoá biểu

Trước năm 1959, thời lượng chương trình Tiểu học là 27 giờ 30 phút/ tuần. Từ niên khoá 1959-1960 và chương trình sửa đổi áp dụng từ 1967-1968, chương trình Tiểu học quy định tất cả học sinh học 6 ngày/ tuần, mỗi ngày học 2 buổi và được nghỉ chiều thứ 4, chiều thứ 7.

Chương trình Tiểu học in thời khoá biểu do Bộ quy định và tất cả các trường trong toàn miền Nam được dạy theo thời khoá biểu chung này. Trong trường hợp đặc biệt, có thể áp dụng thời khoá biểu của Nha học chính và Phần bắt buộc phải có sự chuẩn y của Bộ. Thời khoá biểu trên được áp dụng cho các trường công lập, các trường tư thục có thể phân chia thời khoá biểu linh hoạt hơn. Các trường công lập tuỳ vào điều kiện cơ sở vật chất, giáo viên có thể không áp dụng triệt để thời khoá biểu 2 buổi/ ngày mà chia theo 2 ca sáng – chiều và học sinh chỉ học một buổi.

Phương pháp dạy học

Chương trình tiểu học quy định rõ phương pháp dạy học cần phải tuân thủ: học đi học lại kỹ lưỡng theo phương pháp tiệm tiến, đi từ chỗ biết đến chỗ chưa biết, từ chỗ gần đến chỗ xa, đi từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ cụ thể đến chỗ trừu tượng. Giáo viên phải dùng vật liệu, tranh ảnh hoặc ví dụ thiết thực để cụ thể hoá tất cả các vấn đề đem dạy cho học sinh.

Mỗi môn học có yêu cầu phương pháp dạy học cụ thể. Ví dụ, với môn Việt ngữ yêu cầu nên nhẹ phần tầm chương trình cú mà chú ý giáo dục những vấn đề về đạo đức con người, hạnh phúc gia đình, an ninh xã hội,… hoặc môn Đức dục yêu cầu sơ lược về lý thuyết và cụ thể hoá bài học, những ví dụ rút từ đời sống, những câu chuyện kể hằng ngày. Chương trình Giáo dục công dân là những điều mà mỗi công dân cần biết, những huấn lệnh thiết thực phải thi hành để sống hạnh phúc trong kỷ luật và trật tự, vì thế phương pháp dạy học yêu cầu giáo viên phải chú trọng thực hành và kiểm soát nội dung cẩn thận. Phương pháp dạy toán lại yêu cầu “dạy ít tập nhiều”, ở tất cả các lớp cần phải chú trọng về tính miệng, tập sao cho trò làm thật nhanh, thật đúng thì khi ra đời mới có ích.

Phương pháp dạy học tiểu học đã chú trọng đến thực hành, chú trọng việc dạy trẻ từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp, rèn luyện thường xuyên, liên tục những kiến thức từ thực tế để các em được trang bị những kiến thức có ích và có thể hoà nhập với đời sống cộng đồng.

Sách giáo khoa tiểu học và tài liệu tham khảo

Sách giáo khoa

Đối với giáo dục tiểu học, chương trình giáo dục là thống nhất, nhưng có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau, do Bộ Quốc gia Giáo dục hoặc do các nhà xuất bản tư nhân ấn hành. Tất cả các nhà soạn sách đều phải tuân theo các nguyên tắc căn bản của nền giáo dục là nhân bản, dân tộc, khai phóng và tuân theo các đặc tính cơ bản của giáo dục tiểu học, được in ở đầu chương trình.

Sách giáo khoa được biên soạn theo chủ đề, mỗi chủ đề có những nội dung bài học cụ thể và qua mỗi bài học giáo viên cần rèn luyện để học sinh tiếp xúc với kiến thức thực tế nhiều hơn là những câu chữ từ chương trong sách.

Sách giáo khoa được xem là bộ học liệu để giáo viên phát triển bài dạy theo hướng mở rộng liên hệ các bài học thực tế, từ đó giúp học sinh hiểu bài sâu và vận dụng linh hoạt trong cuộc sống hằng ngày.

Nội dung của các bài học cho mỗi chủ điểm đều hướng tới sự thể hiện 3 nguyên tắc căn bản của nền giáo dục. Không chỉ ở các bài học của môn Đạo đức, Giáo dục công dân, Quốc sử,.. mà các bài học của môn Việt ngữ từ nội dung bài học đến hệ thống từ ngữ, câu hỏi, bài tập đều hướng tới nguyên tắc mà chương trình đã nêu. Không ít bài trực tiếp giáo dục niềm tự hào dân tộc, về tình yêu quê hương, khơi nguồn khát vọng vươn tới ngày mai tươi sáng, khơi gợi tình yêu thương chia sẻ.

Đánh giá, nhận xét về chương trình Tiểu học

Chương trình Tiểu học của giáo dục phổ thông miền Nam được kế thừa chương trình Tiểu học năm 1949 của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam (chính phủ thân Pháp), sau đó, được sửa đổi nhiều lần. Đặc biệt là chương trình Tiểu học sửa đổi theo Nghị định số 1005 – GD/NĐ ngày 16-7-1959 đã chính thức đưa các nguyên tắc căn bản của nền giáo dục (nhân bản, dân tộc, khai phóng) vào chương trình, từ đó xác định mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá học sinh.

Chương trình môn học được biên soạn chi tiết, cụ thể từng tiết học theo từng chủ đề, có yêu cầu về nội dung giảng dạy, phương pháp phải sử dụng đối với mỗi môn học và nhất là mục tiêu cần đạt của mỗi môn học phải đáp ứng mục tiêu chung của giáo dục Tiểu học. Tuỳ theo mỗi chủ đề trong sách giáo khoa của từng môn học mà giáo viên lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp để học sinh tiếp thu một cách tốt nhất, đảm bảo tôn trọng nhân cách trẻ, phát triển tinh thần quốc gia dân tộc và nhất là rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học. Các chủ điểm trong chương trình được biên soạn theo hướng tích hợp đa môn, chẳng hạn, trong môn Việt ngữ học về chủ điểm gia đình thì ở môn Học thuộc lòng, yêu cầu học sinh học một bài thơ về gia đình, môn Đạo đức dạy về tình cảm với ông bà, cha mẹ,..

Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng sách giáo khoa Tiểu học ở miền Nam trước năm 1975 cũng có những điểm mạnh đáng ghi nhận về tính tích hợp; về việc hướng tới triết lý nhân bản, dân tộc, khai phóng, không chỉ ở môn xã hội mà cả những môn Khoa học thường thức, Vệ sinh, Thủ công,… Về con đường hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt và các kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi học sinh Tiểu học như: trật tự ngăn nắp, công việc gia đình, việc học tập, sinh hoạt ở nhà trường,…

Tuy nhiên, theo nhiều nhà giáo dục đương thời thì nội dung Chương trình Tiểu học còn nặng nề về lý thuyết, thiếu thực tế, chưa sát với hoàn cảnh và nhu cầu địa phương, nhất là đối với các vùng dân tộc thiểu số, không thiết thực với hiện trạng nước nàh. Nội dung chương trình khá nặng nề, còn rườm rà phức tạp, vượt quá trình độ về trí năng và tâm lý trẻ, như dạy địa lý cho một em học sinh lớp 5 mà muốn các em phải “hiểu biết những khả năng mới về kinh tế, chính trị và văn hoá của nước nhà, của các nước lân cận và của các nước cường quốc năm châu; để rồi so sánh, suy nghĩ đặng tìm cách theo kịp người hoặc vượt hơn người.

Đông Kha – nhacvangbolero.com

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here