Kiều Chinh là minh tinh điện ảnh nổi tiếnɡ, ᴄũnɡ là diễn νiên nɡười Việt đầu tiên νà ᴄó thể nói là duy nhất đạt đượᴄ nhiều thành ᴄônɡ ở Hᴏllywᴏᴏd – mảnh đất nɡhệ thuật khắᴄ nɡhiệt nhất thế ɡiới.

Câu chuyện chia cắt của Kiều Chinh và gia đình sau thời điểm hiệp định Geneve được ký kết, có thể xem là câu chuyện điển hình đại diện cho vô số hoàn cảnh vợ cách chồng, con cách cha, mẹ xa con, kẻ ở người đi, kẻ Bắc người Nam. Số mệnh đã sắp đặt sẵn cho con người những lịch trình không ai có thể biết trước.

Năm 1954, theo kế hoạch, Kiều Chinh sẽ cùng cha với anh lên máy bay ở Hà Nội để di cư vào Nam. Nhưng vào đêm trước đó, người anh của Kiều Chinh quyết định trốn cha vào chiến khu để theo Việt Minh đánh Pháp. Sáng hôm sau, chỉ còn 2 cha con ra sân bay, và khi hàng đoàn người chen lấn xô đẩy nhau lên máy bay, cha của Kiều Chinh nhấc bổng con gái đẩy lên máy bay trước khi cánh cửa kịp khép lại. Ông quyết định không lên máy bay, sau khi đã gửi gắm con gái cho gia đình một người bạn.

Kiều Chinh – khi đó là cô gái mới 16 tuổi, phải vào Nam một mình, vì người cha quyết định ở lại tìm con trai rồi dự định sẽ đi sau. Nhưng đó cũng là lần cuối cùng Kiều Chinh được thấy, được nghe giọng người cha vô cùng kính yêu. Những ngày tháng sau đó, người cha (tên Cửu) chịu sống trong cảnh ngục tù gian khổ ở miền Bắc, chỉ vì một câu nói đơn giản, đó là nói rằng dân đói khổ chứ không hạnh phúc, ông đã bị bắt đi đày ở nhiều nơi rồi qua đời năm 1978. Người anh của Kiều Chinh (tên Lân), dù đã chọn theo Việt Minh chứ nhất định không di cư, cũng vẫn không thoát khỏi cảnh tù tội.

Năm 1975, một lần nữa Kiều Chinh phải trốn chạy, lần này cũng trải qua hoàn cảnh bi thảm không kém gì hơn 20 năm trước đó, phải vượt qua cả đại dương, bỏ lại tất cả hào quang để làm lại từ đầu, mưu sinh trên xứ người.

Rồi đến năm 1995, khi người cha đã qua đời nhiều năm sau thời gian kiệt quệ vì lao tù, thì Kiều Chinh mới gặp lại người anh trai ngay tại Hà Nội, trong lần đầu bà về nước kể từ năm 1975. Đó là một cuộc trùng phùng đầy nước mắt, mừng tủi, nghẹn ngào.

Câu chuyện đầy đủ những cung bậc cảm xúc về cuộc đời được minh tinh Kiều Chinh kể lại trong cuốn hồi ký xuất bản năm 2021. Bài viết này, xin trích ra những phần nội dung liên quan đến sự ly tán của gia đình Kiều Chinh, giống như là số phận chung của hàng triệu gia đình Việt trong một bước ngoặt của lịch sử.

Diễn νiên Kiều Chinh sinh năm 1937 tại Hà Nội, lớn lên trong một gia đình giàu có, là điền chủ từ nhiều đời gốc ở làng Mọc Cự Lộc (nay là phường Nhân Chính thuộc quận Thanh Xuân). Thừa hưởng toàn bộ điền trang và tài sản của dòng họ, ông nội của Kiều Chinh là cụ Nguyễn Phan, là một nhà nho thích mở mang, xây dựng, chính ông đã cho xây dựng ở làng Mọc nhiều kiến trúc tiêu biểu là cổng tam quan, đền lục lăng, là người xây dựng Kim Mã Gia Trang – nơi gắn liền với tuổi thơ của Kiều Chinh, là một gia trang thơ mộng nằm ngay trong nội thành Hà Nội, đối diện khu núi Bò.

Khác với ông nội, vốn là nhà nho lúc nào cũng nghiêm túc với áo the khăn đóng, cha của Kiều Chinh là Nguyễn Cửu là 1 trí thức Tây học, tốt nghiệp trường Bưởi.

Theo lời kể của Kiều Chinh, bố Cửu dáng người cao, thanh tú, giọng nói ấm áp, mái tóc bồng bềnh, cặp mắt to, buồn, đặc biệt là những ngón tay dài và gầy. Đó là một người đàn ông lịch thiệp, đẹp trai, lúc nào cũng tươm tất và chỉn chu.

Kiều Chinh chụp cùng cha, mùa xuân năm 1954, những ngày cuối cùng ở Hà Nội

Trướᴄ đó, trᴏnɡ thời ɡian Nhật νà quân đồnɡ minh ɡiaᴏ tranh năm 1943, mẹ Kiều Chinh đã qua đời ᴄùnɡ nɡười ᴄᴏn sơ sinh. Đó chỉ mới là bi kịch đầu tiên xảy đến với gia đình.

Kiều Chinh và chị ruột khi còn ở Hà Nội

Sau thảm kịch, cha của Kiều Chinh quyết định đưa 3 con tản cư về làng Mọc, nơi họ có những tháng ngày êm đềm ngắn ngủi bên ông nội trong căn nhà ba gian cổ kính. Sau khi ông nội qua đời, 4 cha con lại trở về nội thành, nhưng lúc này Kim Mã Gia Trang đã bị cháy rụi, họ trôi dạt qua nhiều nơi trong cảnh tang thương của Hà Nội và binh biến, trước khi được một người quen cho ở nhờ trong căn villa ở số 10 đường Lê Trực. Kiều Chinh trải qua thời mới lớn ở căn nhà này cho đến năm 1954.

Ảnh Kiều Chinh đi chơi Đồ Sơn do bố chụp

Theo Kiều Chinh kể lại trong hồi ký, đây cũng là những ngày thiên đường của riêng mình, giống như thời gian ấu thơ. Đây cũng là thời gian nàng thiếu nữ bắt đầu được tiếp xúc với điện ảnh, hun đúc tình yêu với môn nghệ thuật này và là tiền để để sau này trở thành một minh tinh lớn.

Kiều Chinh kể trong hồi ký: “Những chiều đông được khoác tay bố, nép vào bố, khoác chung măng tô với bố, đi trên những con đường quen thuộc đến các rạp xi nê như Majestic, Phiharmonique, hoặc rạp Cầu Gỗ xem phim. Với tôi, đây là những ngày sống tựa như trong thiên đường với người bố tuyệt vời mà tôi may mắn có được.

Nhờ bố, tôi trở nên say mê điện ảnh ngay từ thuở tấm bé, Lần nào đưa tôi đi xem phim bố đều cặn kẽ giảng giải ý nghĩa của phim cho tôi nghe. Những phim tôi ưa thích là những phim như Le Cid, Limelight của Charlie Chaplin…

Thêm một thú vị khác cho tôi là trên đường về, mùa đông trời lạnh hơn, bố ôm sát tôi vào người. Vừa đi ông vừa giải thích thêm cho tôi hiểu cái hay hoặc đâu là phần sâu sắc nhất của từng cuốn phim. Sau này nhớ lại, tôi có cảm tưởng bố tôi dùng phim ảnh để giáo dục, cũng như để mở rộng thêm tầm hiểu biết của tôi về đời sống và nghệ thuật…”

Đó là những ngày 4 cha con được sống hạnh phúc, êm đềm bên nhau. Người cha mất vợ khi mới hơn 30 tuổi đó là một người đẹp trai, lịch thiệp, điềm đạm và tài hoa.

Một vài hình ảnh Kiều Chinh khi còn ở Hà Nội, ảnh từ tập hồi ký của Kiều Chinh:

Kiều Chinh và người bạn thân nhất thời thiếu nữ

Kiều Chinh ở Hồ Tây

Kiều Chinh và chị ruột

Sau đó không bao lâu thì bước ngoặt lớn trong đời đến với Kiều Chinh: Hiệp định Geneve, thời khắc gia đình ly tán.

Trong hồi ký, Kiều Chinh kể rằng sau khi người chị kế lấy chông và theo gia đình chồng sang Pháp định cư không được bao lâu thì hiệp định Geneve được ký kết, đất nước chia đôi, người cha quyết định dẫn 2 con vào Nam. Mọi việc được thu xếp thật cấp bách.

Một buổi sáng, tất cả đồ đạc trong nhà được mang ra sân để thanh lý, khi 2 cánh cổng sắt mở ra thì người mua vào rất đông thành 1 cái chợ nhỏ. Tất cả được bán đi, chỉ riêng cái xe đạp của Lân, người anh cả của Kiều Chinh, thì Lân không chịu bán.

Kiều Chinh và anh Lân

Kiều Chinh kể lại: “Tối hôm đó ba bố con giăng màn nằm ngủ dưới sàn đất. Nửa đêm anh Lân đánh thức tôi dậy, ra dấu im lặng và kéo tôi ra ngoài cổng sắt. Phía ngoài cổng, anh Hiệp Cao (bạn đánh bóng bàn thân nhất của anh Lân) đã ngồi trên xe đạp chờ sẵn, một tay anh giữ một chiếc xe đạp khác, là xe của anh Lân.

Anh Lân ôm tôi, nói: “Chinh, anh với Hiệp phải đi ra chiến khu bây giờ. Anh không đi di cư đâu. Em đi với bố và chịu khó chăm sóc bố giùm anh”.

Tôi hoảng hốt: “Không, anh không được đi, anh phải xin phéAp bố”.

“Bố sẽ không cho phép, bọn anh phải đi”.

Anh Hiệp nhìn tôi, nói ấp úng: “Chinh, anh đi… em ở lại giữ gìn…” Đoạn anh nói thật nhanh: “Anh yêu Chinh”.

Tôi như không nghe anh Hiệp nói gì. Anh Lân buông tôi ra rồi trèo lên yên xe. Tôi nắm chạt ghi đông xe:

“Không, anh không được đi”

Anh gỡ tay tôi ra, nắm chặt: “Chinh, em…”

Tôi giật tay ra khỏi anh rồi chạy vào nhà kêu to: “Bố ơi, bố ơi, anh Lân…”

Khi bố chạy ra, con đường Lê Trực đã vắng tanh. bố lao người ra đường gọi lớn:

“Lân ơi, Lân ơi, con ơi…”

Nhưng tiếng gọi của bố tan loãng vào khoảng không, không thấy hình bóng hai chiếc xe đạp và hai người thanh niên đâu nữa, cả hai đã mất hút trong đêm tối.

Trong bóng tối của căn nhà trống trải, bố ngồi tựa lưng vào tường. Ánh lửa từ điếu thuốc chập chờn lóe lên. Bố hút hết điếu nọ tới điếu kia. Tôi nằm xuống sàn cạnh bố, im lặng. Bố cầm tay tôi và lấy ra từ túi áo một chiếc lắc vàng đeo vào tay tôi, nói: “Con giữ. Phòng khi cần”

Tôi xúc động, giữ chặt tay bố.

“Con cố ngủ sớm một chút đi, mai mình đi sớm”.

Những tôi nào ngủ được. Và bố cũng không ngủ.

Sáng hôm sau bố con tôi vào phi trường Hà Nội. Tôi không biết phải diễn tả thế nào để nói rõ cảnh hỗn loạn của phi trường trong thời điểm ấy. Bố nắm chặt tay tôi cố gắng tìm một chỗ trống đủ cho hai cha con có thể đứng và chờ. Khi nắng trưa lên cao, những chiếc máy bay vận tải DC-3 nhà binh khổng lồ bắt đầu lên xuống. Mối lần máy bay đáp, người ta lại ồ ạt lao mình chạy tới. Cứ như thế, từng đợt, từng đợt xô nhau tới máy bay. Quá trưa thì trời nắng và nóng vô cùng, bố lấy bàn tay để lên đầu tôi như thể cố che nắng cho con.

Lẫn trong đám đông, bất ngờ bố tôi nhìn thấy bác Nguyễn Đại Độ, một người bạn của bố. Không như gia đình chúng tôi chỉ có 2 bố con, gia đình bác Độ đông tới mười mấy người, gồm cả cháu nội, cháu ngoại, người làm cũng chở máy bay ra đi. Hai gia đình chụm lại đứng chung. Trong lúc chờ đợi, bố nói chuyện với bác Độ. Mãi tới khi mặt trời lặn, chuyến bay cuối ngày đáp xuống, “cửa há mồm” ở đuôi máy bay mở tung. Người ta ồ ạt chen lấn, réo gọi nhau trèo lên. Bố theo sát bác Độ. Gia đình bác đã trèo lên đường. Thình lình bố ôm tôi, nhấc bổng khỏi mặt đất và ném tôi lên phi cơ. Lẫn trong tiếng động cơ là tiếng người réo gọi nhau, tôi nghe tiếng nói như gào lên của bố:

“Chinh, con đi trước, bố ở lại tìm anh Lân. Bố sẽ vào Nam sau”.

“Không, không, bố ơi…”

Tôi gào thét vùng dậy, cố nhào ra với bố, nhưng chỉ nhìn thấy dưới đất bố đứng im như cái xáᴄ không hồn. Tôi giơ tay thật cao cho bố nhìn thấy, và lại gào lên: Bố ơi.

Tôi gắng hết sức mình nhào ra, nhưng bị đám đông đẩy ngã chúi xuống sàn sắt. Tôi vùng dậy, kiễng chân mình lên nhìn về phía cuối tàu, thì cũng là lúc bửng máy bay sập xuống. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy, và nghe được tiếng bố.

Ngồi cơ rúm trên sàn máy bay, gục đầu. Tôi khóc. Khóc suốt chuyến bay.”

Máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, Kiều Chinh và đại gia đình ông Độ được xe bus chở về trại tạm cư ở đối diện trường Petrus Ký. Đoàn người xếp hàng lãnh đồ ăn sáng do Tổng ủy di cư tị nạn tổ chức. Khi ghi tên vào thành phần gia đình, ông Độ đề nghị ghi tên Kiều Chinh vào gia đình ông, sau đó đại gia đình được một người cháu họ của ông Độ đón ra khỏi trại tạm cư về ở căn nhà nhỏ đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai).

Gia đình ông Độ có 3 trai, 2 gái, anh cả là Nguyễn Giáp Tý, sau đó là 2 người con gái tên Mùi, Dậu, tiếp đến là Nguyễn Năng Tế, cuối cùng là con trai út Nguyễn Chí Hiếu. Trong đó, Nguyễn Năng Tế chính là mối tình đầu của Kiều Chinh khi cả 2 cùng học ở Hà Nội. Năng Tế đã vào Nam trước đó vì gia nhập quân ngũ, được huấn luyện ở quân trường Thủ Đức, và vẫn thường viết thư cho người yêu Kiều Chinh khi nàng còn ở Hà Nội.

Trong căn nhà mới ở chung với gia đình ông Độ, Kiều Chinh được sắp xếp ở trên một căn gác xép nhỏ, vừa đủ trải 2 chiếc chiếu nhỏ gọn, ngủ chung với chị Sâm – một người làm trong nhà. Trên chiếc chiếu đó, Kiều Chinh đã lặng lẽ thắp lên cây nến nhỏ đánh dấu tuổi 17, sinh nhật lần đầu tiên không có bố bên cạnh. Tại đây, Kiều Chinh sống trong căn nhà được gia đình ông Độ yêu thương, cưu mang, trong tình thương và nỗi nhớ về cha, về anh mà không biết bao giờ mới được gặp lại. Trên manh chiếu nhỏ của căn gác xép, Kiều Chinh cũng được sống những giờ phút riêng tư với mấy tấm bưu thiếp của cha, lúc nãy vẫn còn nhận được từ Hà Nội gửi vào do đường liên lạc bưu chính vẫn còn hoạt động giữa 2 miền trong thời gian đầu. Trong những tấm bưu thiếp đó, luôn có những dòng chữ như Bố của con, Bố yêu thương con, Can đảm con nhé…

Nàng thiếu nữ đó vẫn nuôi hy vọng cha tìm được anh rồi cùng nhau vào Nam đoàn tụ, nhưng niềm hy vọng nhỏ lại dần theo ngày tháng, rồi biến thành nỗi tuyệt vọng.

Sau khi Bức Màn Tre chính thức sập xuống giữa 2 miền, việc di cư kết thúc, Kiều Chinh biết rằng không còn hy vọng gì được gặp lại bố nữa. Cô gái trẻ rơi vào tình trạng chán nản, sợ hãi, sống mòn từng ngày như kẻ không hồn, chỉ làm việc nhà như một cái máy để tròn bổn phận, dọn dẹp nhà cửa và cơm nước cho 2 bác Độ.

Vài tháng sau khi vào đến Sài Gòn, vào một buổi chiều đầu năm 1955, khi Kiều Chinh đang quét dọn sân thì bỗng thấy một chiếc jeep mui trần chạy tới đậu ngay trước cửa nhà. Một người mặc quân phục, tay xách ba lô nhảy xuống trước mặt cô gái và gọi: “Chinh!”.

Đó là thiếu úy Nguyễn Năng Tế. Họ vui mừng gặp lại nhau. Chàng trai không còn là chàng sinh viên non trẻ như xưa, mà đã ra vẻ là một thanh niên tuấn tú, quân nhân thời loạn trong bộ quân phục dù với mũ beret đỏ đội lệch.

Chỉ vài tháng sau đó, Năng Tế báo tin là được chọn đi theo học một khóa huấn luyện tại Fort Benning, tiểu bang Georgia ở Hoa Kỳ, thời hạn một năm. Hồ sơ đi du học đã hoàn tất, chỉ chờ ngày lên đường. Tin này làm cho ông bà Độ lo lắng và có những tính toán nhanh chóng.

Kiều Chinh kể lại: “Một buổi trưa, tôi đang giặt thau quần áo ở nhà bếp thì chị Sâm hăm hở tìm tôi. Vừa thấy tôi, chị nói ngay, giọng mừng rỡ như thể đó là tin vui, chị bảo:

“Cô Chinh này, cháu nghe cụ bà đang lo sợ chuyện chú Tế có thể sẽ lấy vợ Mỹ trong thời gian chú ấy đi học ở bên Mỹ đấy, cô Chinh à…”

Không nghe tôi nói gì, giống như bị cụt hứng vì thấy tôi hờ hưng trước tin sốt dẻo này, chị nói thêm, tựa như đảm bảo cho nguồn tin mà chị có, khi chị nhấn mạnh:

“Chuyện có thật đấy cô Chinh. Cháu nghe nói chỉ còn vài tuần nữa thôi, chú Tế sẽ đi Mỹ. Ở luôn bên ấy, một năm mới được phép về lại nhà. Vì thế ông bà phải làm đám cưới gấp cho chú Tế. Nếu không thì không thể nào kịp được”.

Chị ngừng lại nhìn tôi, làm ra vẻ như thăm dò phản ứng của tôi, trước khi buông thêm một câu nói có độ hé mở vừa đủ, để tôi tự hiểu:

“Cháu cũng nghe hai cụ khen cô Chinh hết lời đấy, cô Chinh ạ”

Vài ngày sau, cũng vẫn chị Sâm lại tìm tôi trong bếp, thì thào: “Cô Chinh, cụ ông và cụ bà bảo cháu mời cô lên nhà trên…”

Khi đó, nhà vắng vẻ. Ông bà Độ đang ngồi trên giường, trước ấm trà. Cụ bà nói, bằng một giọng nghiêm trọng, không giống như những lần dặn dò tôi trước khi xách giỏ đi chợ, theo thói quên tôi vẫn ngồi bệt dưới nền nhà. Lần này cụ bà chỉ tôi ngồi lên mép giường, ngay cạnh cụ. Cụ ông nhìn cụ bà rồi quay sang tôi, nói chậm rãi từng chữ:

“Hai bác có chuyện quan trọng muốn cho con biết. Sỡ dĩ ít lâu nay hai bác còn nấn ná chưa nói ra vì cố ý chờ ý kiến của bác Cửu, bố con. Bác đã cố gắng bằng mọi cách, nhờ đủ mọi cửa ngõ để liên lạc, mãi tới hôm nay bác mới nhận được thư hồi âm của bố con. Đây là thư của bố con, bác mới nhận được. Thư viết cho riêng con. Con đọc ngay ở đây, rồi cho hai bác biết ý kiến”.

Hai tay tôi run lên. Trời ơi! Có tin của bố! Tôi lạy trời xin đó là thư bố viết về ngày hai cha con gặp lại nhau. Tim đập mạnh, tôi hồi hộp đọc thư bố:

“Chinh con

Hai bác Độ có lòng thương muốn cưới con cho anh Tế. Bố đã bằng lòng. Bố biết con còn nhỏ dại, chưa học hành tới nơi tới chốn, cũng chưa đủ khôn lớn để dựng vợ gả chồng. Nhưng hoàn cảnh không thể khác hơn được. Bố không thể gặp con, không lo lắng gì cho con được, trong tình cảnh người Bắc kẻ Nam này! Trăm sự bố trông cậy vào bác Độ. Từ nay, hai bác là bố mẹ của con. Con phải vâng lời, chu toàn bổn phận làm dâu, phụng dưỡng thờ kính gia đình chồng, như gia đình mình vậy.

Con biết bố thương yêu con, lo lắng cho con tới mức nào. Hãy nhớ lời bố, Chinh ạ. Bố không thể viết dài hơn. Bố thương con lắm.

Bố Cửu của con”

Lá thư ngắn ngủi ít dòng của bố tôi, không chỉ dập tắt hoàn toàn mọi hy vọng mơ hồ của một ngày được gặp lại bố. Nó cũng như một quyết định dứt khoát của bố, ném tôi vào ngả rẽ, một cảnh đời khác, khi tôi chỉ mới bước vào tuổi 17.

Tôi biết chắc trong lúc tôi hồi hộp, run rẩy đọc lá thư thì hai bác Độ cũng không ngừng quan sát từng biến chuyển trên khuôn mặt tôi. Tôi cố gắng không biểu lộ tình cảm xúc động. Vì hai bác muốn tôi phải có ý kiến ngay, nên vừa gấp bức thư nhỏ chỉ bằng nửa trang giấy học trò tôi vừa lí nhí nói: “Con xin vâng”.

Tôi chấm dứt đời con gái để trở thành vợ, thành mẹ như thế. Nó cũng bất ngờ, cũng hoang mang, ngơ ngác, y như hôm chia tay bố ở phi trường Hà Nội.

Buổi tối hôm đó, sau khi chu toàn mọi bổn phận thường lệ, tôi tìm về manh chiếu dành cho riêng mình trên gác xép. Đọc lại nhiều lần thư bố, tôi hình dung tâm trạng, nơi chốn bố viết cho tôi lá thư quan trọng này. Nhưng tôi không thể mường tượng được bất cứ điều gì, ngoài tuồng chữ có vẻ ngả nghiêng, bất thường, như được viết trong một thời gian giới hạn, cấp bách nhất, và mảnh giấy thì trông vàng úa, nghèo nàn.

(Phải 30 năm sau, tôi mới biết đó là lá thư ngắn ngủi cuối cùng bố viết cho tôi, không phải từ căn nhà số 10 Lê Trực, mà ở trong một trại tù).

Phần tôi, tôi nhớ rõ, trong đêm đó, nhiều lần tôi ôm lá thư của bố vào ngực, ấp trên môi, với tiếng kêu thầm quen thuộc: Bố ơi…”

Cuộc sống hôn nhân của Kiều Chinh và chồng, cũng là mối tình đầu là Nguyễn Năng Tế, tưởng như là sẽ êm đẹp, mỹ mãn, nhưng đã trải qua nhiều sóng gió.

Sau khi Năng Tế đi Mỹ được hơn 3 tháng thì Kiều Chinh biết mình mang thɑi. Đứa con trong bụng lớn rất nhanh, trong khi người mẹ không có tiền mua quần áo thích hợp, người làm là chị Sâm thương tình cho quần áo cũ để mặc. Lúc này Kiều Chinh mới nhận ra rằng mình không có bất kỳ khoản tiền riêng nào. Một người chị họ bên chồng biết hoàn cảnh khó khăn đó và khuyên bà mẹ trẻ nên đi làm trước khi cái bụng trở nên quá to. Cũng nhờ sự tư vấn của người chị này, Kiều Chinh nộp đơn xin vào làm ở cơ quan MACV (Military Assistance Command Vietnam), một phái bộ cố vấn quân sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Vì biết tiếng Anh nên Kiều Chinh được nhận ngay, nhưng vấn đề khó nhất là thuyết phục được mẹ chồng cho đi làm. Khi đó mọi việc trong nhà, từ cơm nước, dọn dẹp đều là Kiều Chinh làm. Kiều Chinh cố gắng nhờ chị họ thuyết phục mẹ chồng, và nói sẽ thuê người làm để thay mình làm việc nhà. Nhờ có thêm cha chồng ủng hộ, Kiều Chinh chính thức thành nhân viên công sở.

Khi đứa con trong bụng được 7 tháng, Kiều Chinh nhận được thư mời đích danh từ bộ Quốc Phòng tới làm việc. Tại đây một sĩ quan lớn tuổi đưa cô xem thư của thiếu úy Nguyễn Năng Tế, chính thức xin bộ Quốc Phòng cho gia hạn ở lại Mỹ thêm một năm nữa, và đặc biệt là giấy xin phép được thành hôn với một phụ nữ Mỹ!

Nhìn thư của chồng xin ở lại Mỹ, để cưới vợ khác, Kiều Chinh như hóa thành đá, mắt hoa lên như không tin vào sự thật. Sau cùng, nhìn cái bụng đã lớn của người thiếu phụ mới hơn 18 tuổi, vị sĩ quan lớn tuổi an ủi bằng một giọng thông cảm:

“Cháu có giấy giá thú chính thức với thiếu úy Tế, phải không?” 

“Dạ, có”

“Vậy cháu yên tâm về nhà lo cho đứa con sắp chào đời. Luật lệ quân đội không cho phép bất cứ quân nhân nào được lấy hai vợ, tức song hôn”.

Hai tháng sau đó, ngày 19/4/1956, trời mưa tầm tã, người con gái đầu được ra đời, đặt tên là Mỹ Vân. Ban đầu Kiều Chinh định đặt tên là Bích Vân, để nhớ về người bạn thân nhất thời thiếu nữ. Nhưng ông nội đứa bé nói cháu ra đời trong lúc bố ở Mỹ, nên đặt là Mỹ Vân.

Khi Mỹ Vân biết lật thì cũng là thời gian hết hạn một năm ở Mỹ của Năng Tế.

Vào ngày những sĩ quan thụ huấn ở Mỹ trở về, Kiều Chinh xin nghỉ làm, bồng con ra tận phi trường đón chồng. Giữa những tiếng cười đoàn viên hội ngộ của vợ chồng gặp nhau, con cái được gặp cha, Kiều Chinh buồn tủi ôm con lạc lõng trở về với cõi lòng tê lạnh, vì chồng đã xin ở lại Mỹ thêm 1 năm mà không nói với gia đình.

Ảnh TL của huyvespa

Vài tháng sau, Kiều Chinh được cho xem một lá thư mà Năng Tế gửi cho anh họ, trong đó có câu: “…tội nghiệp Chinh. Nhưng em không thể bỏ Majorie”. Kèm thêm đó là tấm ảnh màu, Năng Tế ôm con người Mỹ.

Cuộc hôn nhân bất ngờ, chóng vánh, cũng đã kết thúc một cách bất ngờ, chóng vánh.

Kiều Chinh trở về nhà, trình bày vắn tắt mọi chuyện với cha mẹ chồng và xin phép cho mang con đi. Tuy nhiên bà nội của Mỹ Vân nói:

“Có phép nhà nào lại như vậy hả con? Ba me còn đây. Chỉ riêng con và con của con là vợ cái con cột. Làm sao anh ấy không về được. Ba me sẽ không nhận ai khác làm con dâu của dòng họ này. Con đừng nghĩ ngợi vẩn vơ nữa”.

Kiều Chinh vẫn tạm thời ở lại nhà chồng, sau đó tình cờ được biết có một đường dây đưa người tập kết từ Nam ra lại Bắc. Xe sẽ đi Nam Vang của Cao Miên rồi chạy thẳng ra Hà Nội, giá là 3 lạng vàng. Điều đó như là một liều thuốc hồi sinh cho Kiều Chinh. Lúc này người mẹ đau khổ chỉ có 1 tâm niệm duy nhất: Về lại với cha, con sẽ có ông ngoại. Với chiếc lắc vàng được cha trao cho vào ngày định mệnh năm 1954, Kiều Chinh hy vọng sẽ hoàn thành tâm nguyện được về lại quê hương, một hy vọng hoàn toàn có thể thành hiện thực. Trong hồi ký, Kiều Chinh nói rằng “tôi âm thầm chuẩn bị trong tâm trạng rộn rã của một đứa bé sắp sống lại một lần nữa tuổi thơ rực rỡ của đời mình”.

Tuy nhiên, như là sự sắp đặt của số mệnh, vào một ngày đầu tháng nhận được lương để chuẩn bị cho “ngày trở về”, Kiều Chinh leo lên căn gác xép của mình và phát hiện trộm đã bẽ gãy song cửa sổ và khoén sạch gia tài của Kiều Chinh, trong đó có chiếc lắc vàng và số tiền dành dụm để trong va li. Không chỉ mất đi toàn bộ tài sản ít ỏi, Kiều Chinh còn bị mất đi mơ ước sớm được về với bố và thoát khỏi cuộc hôn nhân tuyệt vọng. Cô như bị điên loạn, gào khóc.

Thêm 1 năm sau nữa, là tròn 2 năm ở Mỹ, người chồng Năng Tế cuối cùng cũng trở về. Vì chuyến vượt tuyến bất thành mà Kiều Chinh buộc phải nối lại cuộc hôn nhân thời vị thành niên, kéo dài thêm 25 năm nữa, Mỹ Vân có thêm 2 em là Hoàng Hùng và Tuấn Cường.

Thập niên 1960, Kiều Chinh là tên tuổi sáng chói của điện ảnh miền Nam, được nhiều nước Á Châu mời đóng phim. Hầu như năm nào bà cũng được mời tham dự các liên hoan phim, từ Á sang Âu. Năm 1968, trong một lần dự Đại hội điện ảnh Berlin, Kiều Chinh bay sang Pháp để gặp chị ruột, đã lấy chồng và sang đây định cư từ năm 1954.

Tại đây, bà Tĩnh, chị của Kiều Chinh, tiết lộ những sự thật về bố và anh mà từ lâu đã giấu không cho em gái biết. Lúc đó liên lạc giữa Hà Nội và Pháp dù không dễ dàng lắm, nhưng không bị cản trở như Hà Nội – Sài Gòn. Bà Tĩnh nói vì thương Kiều Chinh nên giấu giếm những lá thư nhận được từ Hà Nội cho biết những tin buồn, sự thật về những năm tháng bố và anh bị đày đọa tù đày từ nhà tù này tới nhà tù khác, những câu chuyện mà không ai có thể ngờ được. Cuộc sống tận cùng của bi đát.

Anh cả Lân, sau khi ra tù đã lấy vợ, người vợ là Lan, chị ruột của Bích Vân, bạn thân nhất của Kiều Chinh thời đi học.

Trước khi chia tay nhau để Kiều Chinh về Sài Gòn, hai chị em đi mua xe đạp và đồng hồ Rolex để gửi về cho bố và anh, bởi vì 2 thứ này dễ bán nhất ở miền Bắc thời điểm đó. Tiền bán được có thể nuôi sống cả gia đình trong nhiều tháng. Chiếc xe đạp đắt hàng, không phải để đạp đi chơi mà để làm xe thồ hàng kiếm sống. Thời gian đó Hà Nội không có xe hơi, cũng không có cả xăng.

Về lại Sài Gòn, thỉnh thoảng Kiều Chinh viết thư cho bố và anh bằng cách gửi sang Pháp cho chị, rồi từ Pháp chuyển về lại Hà Nội. Không ngờ vì những bức thư qua lại như vậy, Kiều Chinh bị cơ quan an ninh gọi lên thẩm vấn. Vì trong nhà chồng của bà, cả 3 người con trai đều là sĩ quan VNCH, cá nhân bà cũng nhiều lần theo chồng đi dự những bữa tiệc do các tòa đại sứ quán khoản đãi, nên những liên hệ của Kiều Chinh với gia đình ở Hà Nội bị theo dõi. Cơ quan an ninh Sài Gòn khuyên bà nên chấm dứt liên lạc, nếu không cơ quan an ninh sẽ buộc phải điều tra, không chỉ Kiều Chinh mà luôn cả chồng.

Trong 2 thập niên 1960-1970, Kiều Chinh trở thành nữ minh tinh nổi tiếng nhất miền Nam và tên tuổi vang xa ra đến khắp Á Châu. Đanɡ ở trên đỉnh νinh quanɡ thì một bước ngoặt lớn lại xảy đến.

Kiều Chinh ᴄhᴏ biết thời điểm thánɡ 3/1975, bà đanɡ thựᴄ hiện quay ᴄuốn phim ᴄuối ᴄùnɡ νới tựa đề là Full Hᴏusе tại Sinɡapᴏrе, sau đó quay νề Sài Gòn ɡiữa lúᴄ nơi đây đanɡ hỗn lᴏạn.

Tờ báo Singapore đăng ảnh Kiều Chinh trên trang bìa, sau khi bà đóng phim Full House

Trên chuyến bay từ Singapore về Sài Gòn ngày 16/3/1975, chỉ có 1 hành khách duy nhất là Kiều Chinh, vì lúc đó hầu như ai cũng muốn đi theo chiều ngược lại. Khi ở Singapore, tin tức từ Sài Gòn sang dồn dập, người nhà từ Canada, từ Sài Gòn gọi sang liên tục khuyên Kiều Chinh tuyệt đối không được về nước. Lúc đó 3 người con của Kiều Chinh – Năng Tế đã được gửi sang Toronto ở với người bác (chị ruột của ông Tế) để du học, và mẹ chồng thì đã qua đời, nhưng ở Sài Gòn vẫn còn lại chồng và cha chồng, nên Kiều Chinh vẫn quyết định về, ngay sau khi kết thúc ngày quay phim cuối cùng.

Về tới Tân Sơn Nhứt, số tiền thù lao đóng 3 phim (2 ở Thái Lan và 1 ở Singapore trong đợt đó) của Kiều Chinh vốn là ngoại tệ, nhưng khi về Việt Nam bị buộc đổi thành tiền Việt Nam. Cô mang 1 bao bố tiền về nhà trong sự ngỡ ngàng của chồng và cha chồng, vì đã dặn đừng về, và phải giữ lại tiền dollars.

Những ngày sau đó Sài Gòn trong cơn hấp hối, vô số cuộc điện thoại từ Canada hối thúc gia đình Kiều Chinh rời Việt Nam ngay lập tức. Ngay cả chồng và cha chồng của Kiều Chinh cũng nói bà nên ra đi, vì lúc đó bà vẫn còn giấy thông hành ngoại giao, ra đi lúc nào cũng được. Kiều Chinh bị giằng co, vì lúc đó không thể mang theo gia đình chồng, chỉ có thể ra đi một mình. Sự ám ảnh năm 1954 trở lại, một lần nữa bà bị cắt lìa khỏi gia đình.

Vì sự thúc giục của gia đình, và sự giúp đỡ tận tình của người bạn thân lúc đó đang là phó giám đốc Air Vietnam, Kiều Chinh đã lên đượᴄ một ᴄhuyến bay trở lại Sinɡapᴏrе, không mang theo được một vật dụng nào, ngoài túi xách nhỏ và vài chục Mỹ kim sót lại.

Máy bay của Air Vietnam đáp xuống phi trường Singapore, nơi Kiều Chinh chỉ vừa mới đi khỏi đúng 1 tuần lễ trước, nhưng lúc này bà ở một tâm thế hoàn toàn trái ngược. Lúc rời đi, bà là một minh tinh điện ảnh vừa đóng vai chính trong 1 bộ phim của Singapore. Đến lúc quay lại, bà bị cảnh sát áp giải vào tù, với lý do là giấy thông hành ngoại giao của bà được cấp bởi một chính phủ không còn hiệu lực. Dù lúc đó VNCH chưa chính thức sụp đổ, nhưng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức.

Sau đó nhờ sự trợ giúp của đoàn phim Full House νà đại sứ ᴄủa VNCH tại Sinɡapᴏrе là Trương Bửu Điện, Kiều Chinh được bảo lãnh ra khỏi tù sau mấy ngày bị tạm giam, nhưnɡ νới điều kiện là phải rời ngay khỏi Singapore trᴏnɡ νònɡ 48h. Lúᴄ đó, khônɡ một quốᴄ ɡia nàᴏ trên thế ɡiới ᴄấp visa nhập ᴄảnh νì passpᴏrt Việt Nam của Kiều Chinh là của một chế độ đang sắp sửa bị sụp đổ. Cách duy nhất để bà rời được Singapore là lấy 1 vé máy bay rồi bay đi chỗ khác. Bất kể là máy bay đến đâu, cứ xuống máy bay bà lại phải leo lên máy bay khác bay tiếp, từ Đông sang Tây, chờ cho Sài Gòn đổi chủ thì bà mới có thể xin tị nạn chính trị ở nơi mà máy bay đáp xuống.

Vì vậy, Kiều Chinh trải qua một chuyến bay có thể là độc nhất vô nhị cho đến nay, cứ vòng vòng trên trời để chờ cho Sài Gòn sụp đổ vào 1 ngày cận kề, nhưng không ai biết chính xác là khi nào. Suốt 3 ngày đêm sống vất vưởng giữa trời cao trong tâm trạng hoang mang tột độ, từ Singapore đến Bangkok, Hongkong, Seoul, Tokyo, Paris, New York, điểm đến cuối cùng là Toronto, là nơi 3 người con của Kiều Chinh đang du học, cũng là thời điểm chiều ngày 30/4/1975, cô thành người Việt Nam tị nạn đầu tiên ở Canada.

Tại đây, cô làm những công việc chân tay như bao công nhân lao động bình thường khác, trước khi đến Mỹ tìm lại hào quang điện ảnh bằng cách dấn thân vào Hollywood và đạt được những thành công nhất định.

Dù định ᴄư ở Mỹ, Kiều Chinh νẫn ᴄó nhữnɡ đónɡ ɡóp khônɡ mệt mỏi thônɡ qua nhiều hᴏạt độnɡ từ thiện trᴏnɡ nhữnɡ lần νề thăm quê hươnɡ. Bà là đồng sáng lập của hội từ thiện The Vietnam Children’s Fund (VCF) với mục đích quyên góp để xây tặng trẻ em Việt Nam những ngôi trường tiểu học tại những nơi bị tàn phá bởi lửa binh ngày xưa.

Năm 1995, Kiều Chinh có lần đầu tiên về Việt Nam sau tròn 20 năm để khánh thành ngôi trường đầu tiên do VFC xây cất ở vùng đất cắt ngang vỹ tuyến 17. Cũng trong năm này, bà tìm gặp được người anh trai duy nhất của mình vẫn ở Hà Nội sau 41 năm cách chia vỹ tuyến và sau đó là cách cả đại dương.

Những cái mốc 1955, 1975, 1995 đầy ý nghĩa của một mỹ nhân toàn sắc toàn tài, từ một người thiếu nữ mềm yếu được cha bảo bọc từ nhỏ, bị lưu lạc theo dòng lịch sử, nhiều lần tưởng đã quỵ ngã trước vô số chông gai, trở ngại, để rồi cuối cùng trở thành nữ minh tinh nổi tiếng nhất của điện ảnh Việt Nam.

Kiều Chinh kể lại trong hồi ký buổi gặp gỡ cảm động với anh trai khi về nước năm 1995 trong hồi ký như sau:

“Ngay khi tới phi trường Nội Bài, Hà Nội, nơi tôi đã ra đi 41 năm trước, trong đám đông đón khách ở lối ra phi trường tôi nhận ngay ra anh, người anh tôi đã xa 41 năm ròng rã. Cùng lúc, tôi có cảm giác được gặp lại cả bố và lần anh – anh rất giống bố. Mọi tế bào trong cơ thể tôi bùng vỡ trước hình ảnh tưởng chừng chỉ thấy trong giấc mơ.

Anh già đi, tất nhiên, tóc anh đã pha sương, mặt anh gầy hơn xưa, nhiều nếp nhăn hằn sâu khắc khổ, nhưng vẫn là anh – anh Lân của tôi.

Sơ mi trắng, cà vạt, tay cầm bó hoa hồng đỏ, anh chạy xô đến, ôm chầm lấy tôi, cơ thể anh run rẩy như bị cơn xúc động dâng lên tột đỉnh, anh nhấc bổng tôi lên, hôn tôi. Hai anh em bám chặt nhau, như sợ mất nhau lần nữa.

“Trời ơi, anh Lân, anh Lân!” – Tôi thì thầm trên vai anh.

“Chinh ơi, anh chờ em lâu quá!” – Tôi nghe tiếng anh nấc.

Tôi không biết tôi đang cười hay khóc. Anh nắm tay tôi không rời. Tôi mừng vì thấy sau bao năm đau thương khổ nhọc, dù mái tóc đã pha muối, bàn tay người anh năm xưa vẫn rắn chắc, vẫn bàn tay từng dắt tôi đi trên mảnh đất này từ những ngày thơ ấu.

Cùng ra phi trường đón tôi cơ vợ và con anh Lân. Trên xe, chị Lan, vợ anh Lân, và cháu Loan, con gái đầu lòng của anh, im lặng, không ai thốt một lời, tôn trọng những phút giây xúc động của hai anh em.

Chúng tôi hối hả nói với nhau, nói liên hồi đủ mọi chuyện dồn nén suốt biết bao năm tháng chia xa. Cũng như tôi, anh đã vò võ chờ đợi một ngày như thế này. Và ngày ấy rồi cũng đến”.

Kiều Chinh gặp lại anh trai ở Hà Nội sau 41 năm

Ngày hôm sau đó, ông Lân dẫn Kiều Chinh đi thăm mộ cha, ở đó có cả mộ mẹ và người em út, nằm cạnh nhau, đơn sơ, hoang vắng. Ông Lân nói khi cha mất, hoàn cảnh vô cùng bi đát, một chỉ là một đống đất với tấm bia tạm, vừa mới được xây lại cách đó 2 tuần trước khi Kiều Chinh về để thấy được tươm tất.

Người con gái út về thăm cha sau hơn 40 năm, nay đã nằm sâu đất lạnh, quỳ gối nghẹn ngào xin lỗi cha vì đã không ở bên cạnh khi cha cần nhất. Ông Lân nói: “Chúng ta đều có lỗi với bố, Chinh ạ. Anh còn có lỗi nhiều hơn em”…

nhacvangbolero.com biên soạn

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here